Thần đạo Shinto (P5): Thần đạo và Phật giáo

Nếu như Thần đạo chủ yếu hướng con người đến việc sống hòa hợp với thiên nhiên, gắn bó với mặt đất thì Phật giáo lại mang đến tư tưởng rằng đời chỉ là bể khổ và hướng con người đến với cảnh giới cao hơn của sự giác ngộ (hư vô), và mang đến quan niệm về kiếp sau, về cuộc sống sau cái chết. Người Nhật chưa từng nghĩ đến việc đó, và tư tưởng mới này của Phật giáo đã tạo ra một nền móng để nó phát triển. Hình thức Phật giáo du nhập vào Nhật Bản là phái Đại Thừa, các môn đồ của phái có thể tự do rao giảng các lời răn của nhà Phật, và vì thế Phật giáo có thể thay đổi để thích hợp với Nhật Bản.

Sự ra đời của Phật giáo

Phật giáo hay đạo Phật ra đời ở Ấn Độ vào thể thế kỉ thứ 6 TCN. Theo truyền thuyết kể lại thì một vị hoàng tử của nước Ấn tên là Tất Đạt Đa (Siddhartha Gautama) – người sau này được biết đến là Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni) sinh ra đã sống trong nhung lụa và sự bảo bọc che chở của gia đình. Đến một ngày, ông chú ý đến những sự thống khổ của những người xung quanh mình. Từ đó ông quyết tâm đi tìm nguyên nhân và lời giải cho những thống khổ đó.

Tất Đạt Đa rời gia đình và gia nhập vào một nhóm các tu sĩ, những người sẵn sàng từ bỏ mọi ham muốn dục vọng, chấp nhận và kiên trì với cuộc sống khổ hạnh để mong đắc đạo. Sau một thời gian, Tất Đạt Đa không tìm thấy câu trả lời mà ông mong muốn, nhận ra đó không phải là phép tu dẫn đến giác ngộ, bắt đầu ăn uống bình thường. Tất-đạt-đa tìm phương pháp khác, và nhớ lại một kinh nghiệm thời thơ ấu, lúc đang ngồi dưới gốc cây mận. Ông đến Giác Thành, ngồi dưới gốc một cây Bồ-đề ở Bồ Ðề Ðạo Tràng và bắt đầu ngồi thiền, nguyện sẽ nhập định không rời chỗ ngồi cho đến lúc tìm ra nguyên nhân và cơ chế của Khổ. Sau 49 ngày thiền định, mặc dù bị Ma vương quấy nhiễu, Tất Đạt Đa đạt giác ngộ hoàn toàn ở tuổi 35. Từ thời điểm đó, Tất Đạt Đa biết mình là Phật, là một bậc Giác ngộ. Kể từ đó, ông bắt đầu truyền bá, thao giảng cho các môn đồ những gì mình giác ngộ được, cụ thể là Tứ diệu đế – là bốn chân lí cao cả, là gốc cơ bản của Phật giáo (cũng là nội dung chính của bài kinh đầu tiên, kinh Chuyển pháp luân) và Bát chính đạo –  là con đường tám nhánh để giải thoát khỏi Khổ (cũng là chân lý cuối cùng của Tứ diệu đế).

[Bát Chính Đạo] Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mệnh, Chính tinh tấn, Chính niệm, Chính định

Con đường của Phật

Mặc dù được công nhận là dễ hiểu và rõ ràng nhưng những lời răn của Đức Phật rất khó có thể đạt được, hoặc thực hiện một cách triệt để. Với Bát Chính Đạo, những bước đường đầu tiên có vẻ không khó để thực hiện nhưng càng về sau càng khó và đầy tính thử thách. Chúng đòi hỏi con người phải gạt bỏ mọi tà niệm, hoàn toàn không có những hành động và ý nghĩ xấu xa, tất cả trong tim và tâm trí của họ chỉ là những điều tốt, điều thiện. Mà để đạt được trạng thái đó không có cách nào khác là ngồi thiền, chấp nhận khổ hạnh, tự nghiêm khắc với bản thân nếu mong có thể tu thành chính quả. Tuy khó khăn nhưng vì tính dễ hiểu và đưa ra quan niệm rằng ai tu hành đủ lâu cũng có thể trở thành Phật, vì thế Phật giáo thu hút được rất nhiều môn đồ khi mới du nhập vào Nhật Bản.

Niết Bàn

Thích Ca Mâu Ni có khuyên các môn đồ của mình rằng chớ có làm gì quá mức, như đừng tìm kiếm dục vọng quá mức hay đừng tự ép bản thân quá mức, ông nhấn mạnh tới việc con người phải tự điều khiển chính mình, tự tiết chế. Đó cũng là một quan điểm tương đối phóng khoáng, có thể giúp thu hút thêm nhiều môn đồ.

Phật cho rằng những sự thống khổ và chịu đựng trong cuộc sống xuất phát từ dục vọng, nếu như con người có thể đạt được Niết Bàn, trạng thái nhận thức của sự khai sáng, thì người ta có thể hoàn toàn kiểm soát dục vọng của mình. Ngồi thiền là cách để điều khiển dục vọng. Phật giáo còn đưa thêm một tư tưởng mới nhằm khuyến khích sự kiềm chế của dục vọng con người, đó là sự đầu thai. Phật giáo cho rằng đời người có nhiều kiếp, chết đi ở kiếp này có thể sẽ được đầu thai sang kiếp sau. Thứ quyết định vật mà người chết sẽ đầu thai ở kiếp sau là karma – Nghiệp, cũng tức là ” Nhân – quả”. “Reo nhân nào gặt quả nấy”, tùy vào cách sống và những gì con người làm ở kiếp trước mà kiếp sau sẽ được đầu thai thành cái gì.

Phật giáo lan rộng

Hình ảnh một nhà sư

Hình ảnh một nhà sư

Sau khi ra đời, Phật giáo đã nhanh chóng vượt ra khỏi lãnh thổ Ấn Độ và lan sang Trung Quốc và các nước Đông Á. Vào thời điểm Phật giáo được du nhập vào nước Nhật, nó đã là một thứ tôn giáo phát triển và có tổ chức. Phật giáo đã xây rất niều tu viện, có nền tảng tư tưởng đạo lý vững chắc, cũng như các nghi lễ thờ phụng. Nhật Bản không chỉ tiếp nhận những tư tưởng mới mẻ của Phật giáo mà còn phát huy những vẻ đẹp bên trong của nó.

Chính quyền Thiên hoàng cũng là nhân tố giúp cho Phật giáo được lan rộng. Sang thế kỉ thứ 7, họ bắt buộc mỗi gia đình phải thuộc về một ngôi Chùa và trong mỗi nhà phải có nơi để thờ Phật. Các tỉnh bắt buộc phải có một bức tượng Phật tối thiểu 5m, chính quyền cũng hỗ trợ việc xây dựng các Thiền viện, các đền chùa thờ Phật (thường cao 7 tầng).

Sự hòa hợp của Phật giáo và Thần đạo

Hai tôn giáo cùng song song tồn tại, người dân tổ chức lễ hội của cả 2 tôn giáo và cùng thờ phụng các vị thần linh của cả hai. Thông thường trong các ngôi chùa lớn thường có các ngôi đền, miếu thờ Thần đạo nhỏ để mọi người tiện cho việc thờ cúng.

Vào cuối thế kỉ thứ 6, chỉ một thời gian ngắn sau khi Đạo phật nhanh chóng đặt nền móng phát triển tại Nhật Bản, một nạn dịch xảy ra và cướp đi sinh mạng của rất nhiều người. Họ cho rằng đó là dấu hiệu giận dữ của các Thần vì người dân đã quay lưng lại với Thần đạo để đi theo cửa Phật. Thế là mọi người bắt đầu đập bỏ các tượng Phật và quay trở lại các đền thờ Thần đạo. Nhưng không lâu sau đó, một phần vì sức hút rất lớn của Đạo Phật, họ cho rằng Phật giáo và Thần đạo hoàn toàn có thể cùng tồn tại một cách hòa hợp, Phật giáo được hồi sinh và còn phát triển rực rỡ hơn trước.

Chân Ngôn Tông

Vào đầu thế kỉ thứ 9, Đại sư Kukai (774 – 835) đã đến Trung Quốc để học tập thêm về Phật pháp. Sau khi trở về Nhật, ông đã thành lập ra một tông phái Phật giáo mới ở trên núi Koya, gọi là Chân ngôn tông (Shigon – 真言宗). Kukai về sau được biết đến dưới cái tên Kobo Daishi (Đại sư Kobo), được tưởng nhớ và kính trọng như một trong những người giúp truyền bá Phật giáo ở Nhật, ông cũng được biết đến là người rất giỏi về văn thơ và hội họa. Phái Chân Ngôn của ông cũng là phái có rất nhiều môn đồ tại Nhật, với cách chủ đạo để giảng giải lời dạy của Phật là qua hội họa, nghệ thuật thay vì qua kinh Phật.

Ryobu Shinto

Kobo Daishi cũng là người khởi tạo ra giáo lý Ryobu, Thần đạo lai Phật giáo. Ông đã kết hợp rất nhiều yếu tố của Thần đạo vào trong các bài giảng và pha trộn hai tôn giáo làm một. Chân Ngôn Tông đã hận diện nhiều vị thần trong Thần đao có những tính cách và biểu hiện giống như các đức Phật.

Các Phật tử của Ryobu nói rằng các vị thần trong Phật giáo chính là những linh hồn thật sự còn các vị thần của Thần đạo chỉ là sự phản chiếu của hiện thực đó. Nghĩa là thần của Thần đạo là vẻ bên ngoài, thần Phật mới là cái bên trong. Ví dụ Thần mặt trời Amaterasu có linh hồn là Phật Đại Nhật Như Lai (Mahavairocana), Ngài là biểu hiện của ánh sáng mặt trời, ánh sáng Trí Tuệ chiếu soi và diệt trừ bóng tối, Susanowo thì được cho là có linh hồn của Phật Dược Sư (Bhaisajyaguru), vị Phật thầy thuốc.

Các Phật tử phục vụ trong các đền thờ Thần đạo, và mang đến những nghệ thuật, âm nhạc và nghi lễ của Phật giáo. Họ cũng tổ chức các lễ hội cùng với các thần chủ (Thần đạo) và tổ chức các đám tang. Kiến trúc và cách trang trí của các ngôi đền cũng trở nên phức tạp và cầu kì hơn trước. Ngày càng khó phân biệt đâu là Đền chùa thờ Phật và đâu là đền chùa thờ Thần.

Mặc dù nhiều nhánh trong gia đình hoàng tộc theo Phật giáo, là các nhà sư nhưng Thần đạo vẫn là tôn giáo chính thống của Hoàng gia Nhật Bản. Ryobu Shinto thì vẫn kéo dài cho đến tận thời đại ngày nay.

Thiên Đài Tông

Cuối thế kỉ thứ 9, cùng thời mà Đại sư Kobo Daishi lập nên Chân Ngôn Tông, một nhà sư tên là Saicho, còn được biết dưới cái tên đại sư Dengyo Daishi đã sáng lập nên một tông phái Phật giáo tên là Thiên Đài (Tendai – 天台宗) ở núi Hiei, gần Kyoto. Phái Thiên Đài tin rằng những hành động đơn giản như lặp lại những lời của Phật A Di Đà cũng có thể đem đến sự khai sáng. Thiên Đài Tông có sự liên quan mật thiết đến thần núi Hiei. Chính sự kết hợp của các yếu tố Thần đạo có trong các tông phái Phật giáo như Chân Ngôn và Thiên Đài đã giúp Phật giáo được nhiều người Nhật chấp nhận hơn.

Hachiman có thể nói là vị thần có số Đền thờ nhiều nhất. Hachiman nguyên bản là vị thần khai thác mỏ đồng ngày xưa, và vị thần này gắn với gia tộc Minamoto. Do việc xây dựng mà rất nhiều các ngôi Chùa Phật đều cần các nguyên liệu qúy như vàng, và họ đến các đền thờ của ông để cầu được nhiều vàng hơn. Và quả thật, họ đã khám phá ra nhiều mỏ vàng. Để cảm ơn, họ cho dựng một đền thờ thần Hachiman ngay trong thủ đô. Hoàng gia lấy Hachiman làm thần bảo vệ quốc gia khỏi dịch bệnh và làm trấn an dân chúng. Về sau vào thời kì chiến tranh, Hachiman trở thành Thần chiến tranh và bảo vệ Nhật Bản trong các trận đánh. Hachiman được cho là sự tái sinh của linh hồn Thiên hoàng Ojin (270 – 310). Hachiman có mặt trong Chân Ngôn Tông và được các phật tử thờ phụng. Hachiman có ảnh hưởng rất lớn đến nghệ thuật trong Ryobu Shinto. Vào thế kỉ thứ 9 đã có rất hiều tượng và tranh minh họa Hachiman dưới dạng một vị Phật (biểu hiện của sự pha trộn giữa Thần và Phật thời kì này). Hachiman cũng thường xuất hiện trong các bức họa tam thần, bao gồm ông, mẹ ông là Nữ hoàng Jingo và người vợ của ông là Nakatsu-himi (cũng là thần)

Phật giáo phát triển và thay đổi

Giữa thế kỉ 12 và thế kỉ 14, 3 tông phái mới của Phật giáo là Tịnh Độ tông, Nhật Liên tôngThiền tông. Các phái trên đều có nguồn gốc từ Thiên Đài Tông nhưng mỗi loại lại đi theo một hướng khác nhau.

Tịnh Độ Tông

Giống như Thiên Đài gốc, Tịnh Độ tông tập trung vào việc thờ phụng và làm theo lời răn của A Di Đà, Đức Phật sống ở miền cực lạc phía Tây. Tông phái này rất đơn giản, chỉ yêu cầu các môn đồ đặt hết lòng tin vào Phật A Di Đà, bằng cách lặp lại câu nói “A Di Đà Phật” (tiếng Nhật: Amida Butsu) – nghĩa là “Tôi tin vào đức Phật A Di Đà”,như vậy các môn đồ có thể được tái sinh tại thiên đàng. Chính nhờ sự đơn giản mà Tịnh Độ Tông rất phổ biến tại Nhật Bản.

Nhật Liên Tông (Nichiren)

Nichiren (1222 – 1281) là một nhà cải cách Phật giáo muốn loại trừ hết tất cả các tông phái Phật giáo khác. Ông quả quyết rằng Nhật Bản sẽ trở thành một thiên đường dưới hạ giới nếu như mọi người đi theo và chỉ đi theo con đường Phật giáo của ông. Nichiren rao giảng câu nói “Namu Myho Rengekyo“, nghĩa là “Tôi tin vào Diệu Pháp Liên Hoa”, sẽ mang đến lời giải cho những vấn đề gặp phải. Nhật Liên Tông đem đến cảm giác rất Nhật và gắn liền với đất Nhật, từ lâu đã được các vị thần bảo vệ và nuôi dưỡng.

Thiền Tông

Thiền Tông du nhập từ Trung Hoa vào Nhật Bản vào thế kỉ 12, và nó có nhiều màu sắc của Đạo giáo. Thiền Tông tin rằng mọi vật đều có bản chất của nhà Phật bên trong và có thể được giác ngộ bằng trực giác qua ngồi thiền. Bên trong Thiền vừa đơn giản mà tinh tế, lại vừa có sự hà khắc, kỷ luật ở bên trong. Tư tưởng tin rằng tính Phật có trong mọi vật, giống như tư tưởng mọi vật đều có các vị thần của Thần đạo cũng làm thu hút nhiều người Nhật.

Phật giáo và Thần đạo

Vườn đá ở chùa Ryoan-ji, Kyoto. Là một vườn Thiền tông, tiêu biểu cho sự pha trộn của Phật giáo Trung Hoa và quan niệm của người Nhật.

Ngày nay, những người theo Phật giáo và Thần đạo, cùng với đó là những Đền Chùa và lễ hội của cả hai tôn giáo này đều có thể được sử dụng với mục đích như nhau, và thật khó để phân biệt đâu là Phật giáo và đâu là Thần đạo. Cũng giống như Thần đạo, Thiền của Phật giáo cũng đề cao vẻ đẹp cảu thiên nhiên và mong muốn cho con người luôn trung thực và ngay thẳng. Nghệ thuật và văn hóa của thời đại này đã được khắc họa trong các môn nghệ thuật như ikebana – nghệ thuật cắm hoa hay sumi-e – tranh thủy mặc, thơ haiku – loại thơ ngắn 17 kí tự, đều phản ánh những lý tưởng và nghệ thuật của cả hai tôn giáo, Phật và Thần.

sumie


(còn tiếp)

Đọc phần 4: Khởi đầu của Thần đạo                 Đọc phần 6: Thần đạo thời Mạc phủ

————————–

Nguồn:

World Religions – Shinto, by Paula R.Hartz, 3rd Edition, 2009

Wikipedia

Bài post được dịch dựa vào cuốn World Religions – Shinto của Paula R.Hartz không vì mục đích thương mại

Advertisement

4 thoughts on “Thần đạo Shinto (P5): Thần đạo và Phật giáo

  1. Cậu ơi tớ không vào được trang web nipponkiyoshi.com đọc bài được 😦

    Vào 21:18 Ngày 15 tháng 12 năm 2014, “Khám phá Nhật Bản cùng Kiyoshi” đã viết:

    > kiyoshi posted: “Nếu như Thần đạo chủ yếu hướng con người đến việc sống > hòa hợp với thiên nhiên, gắn bó với mặt đất thì Phật giáo lại mang đến tư > tưởng rằng đời chỉ là bể khổ và hướng con người đến với cảnh giới cao hơn > của sự giác ngộ (hư vô), và mang đến quan niệm về ki” >

    Thích

  2. Pingback: Tổng hợp loạt bài viết về Thần đạo | Khám phá Nhật Bản cùng Kiyoshi

  3. Pingback: Shinto (phần 6): Thần đạo thời Mạc phủ | Khám phá Nhật Bản cùng Kiyoshi

  4. Pingback: Shinto (phần 4) – Khởi đầu của Thần đạo | Khám phá Nhật Bản cùng Kiyoshi

Để lại bình luận

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.