Về giáo dục Đại học ở Nhật Bản và những thứ Việt Nam nên học theo

Hôm nay mình có dịp trò chuyện với một sinh viên đang học Thạc sĩ ngành kinh tế ở ĐH Tohoku. Mình đã học đại học ở Việt Nam rồi (trường FTU), và đây là những điều mà mình thấy giáo dục ở Nhật Bản đang làm tốt hơn ở Việt Nam.

Syllabus

Cũng giống như Việt Nam, đại học ở Nhật cũng chia thành 4 năm. Hai năm đầu tiên được ưu tiên cho các kiến thức phổ thông, và hai năm sau dành cho các kiến thức chuyên ngành.

Ở hai năm đầu, cũng giống như ở Việt Nam, sinh viên được yêu cầu học các môn cơ bản như Vi mô (1 và 2), Vĩ mô (1 và 2), Kinh tế lượng (1 và 2), cùng với Toán cao cấp.

Tuy nhiên, ở Nhật sẽ không có các môn như Triết học và Tư tưởng chủ nghĩa Mác Lênin (thường chiếm 6 bộ môn) và các môn như Giáo dục thể chất hay Tin học. Theo mình, điều này giúp sinh viên tiết kiệm được tối đa thời gian cho các môn học quan trọng và giúp phân bổ thời gian hiệu quả hơn. Đơn cử như ở Việt Nam, tiết học đầu tiên bắt đầu từ 7:00 sáng, mỗi ca học kéo dài trong 110 phút. Sáng có 2 ca, chiều 2 ca, đến khoảng 18:10 mới xong. Như vậy, ở Việt Nam sinh viên phải đi học khi mà dậy còn chưa kịp tỉnh, và thời gian học kéo dài rất lâu gây mất tập trung. Tại Nhật Bản, ca đầu tiên bắt đầu từ 8:50 sáng, mỗi ca học chỉ kéo dài trong 90 phút. Sinh viên có đủ thời gian ăn, ngủ, nghỉ, và làm bài tập.

Thời lượng ít hơn không có nghĩa là học sinh học ít đi. Trái lại, sinh viên cần phải dành thời gian tự học nhiều hơn. Đồng thời, sự phân bổ thời gian như vậy tạo điều kiện cho sinh viên đi làm thêm để trang trải cuộc sống do mỗi ca học kéo dài ít hơn. Sinh viên cũng ít phải dành trí óc cho những môn không có nhiều giá trị thực tiễn cả trong thị trường lao động lẫn học thuật.

Tiện nói thêm. Giáo dục thể chất vốn sẽ được điều hành bởi các CLB thể thao trong trường. Như vậy, sinh viên có thể tự tổ chức sinh hoạt với nhau theo thời gian thích hợp. Và các CLB này có giải cấp trường, cấp liên trường, cấp tỉnh-thành phố, cấp quốc gia khác nhau. Bản thân cách làm này cũng tránh ép sinh viên học những môn thể thao mà mình không có năng khiếu, vốn là thứ nên được ưu tiên thay vì phổ cập “bơi” hay “cầu lông” tới tất cả mọi người và lấy đó làm tiêu chí xét tốt nghiệp.

Khác biệt đến từ năm 3

Sinh viên ở VN, ít nhất là ở trường FTU, học năm 3 không khác gì mấy so với năm nhất và năm hai. Điều khác biệt lớn nhất là ở năm 3 có một kỳ thực tập, và sang năm 4, sinh viên bắt đầu liên hệ với thầy cô để viết khoá luận.

Sinh viên Nhật Bản có sự phân hoá cực kỳ rõ rệt từ năm thứ 3. Thứ nhất, các kiến thức phổ thông thì ai cũng đã lĩnh hội ở hai năm đầu tiên như đã nói ở trên. Tuy nhiên, sang năm thứ 3, các sinh viên thường chọn sinh hoạt theo một thày hướng dẫn bộ môn cụ thể (gọi là zemi/seminar). Chọn thầy chuyên về kinh tế vĩ mô nghĩa là các sinh viên sẽ được trực tiếp học sâu về kinh tế vĩ mô, đọc các sách chuyên khảo, thảo luận, và lên đề tài làm khoá luận.

Sinh viên năm thứ 3 thường có 2 lựa chọn sau khi tốt nghiệp: xin việc hoặc học cao học. Những ai xin việc thì thông thường sẽ bắt đầu săn cơ hội thực tập, chuẩn bị tìm công ty và ứng tuyển. Những ai muốn học lên cao học đã có thể lựa chọn các môn nâng cao (dự bị cao học), chọn trường, đầu tư vào ôn thi đầu vào. Đặc biệt là các sinh viên năm 3 thường được khuyến khích học các môn của chương trình cao học mà trường có.

Như vậy, mình có thể rút ra kết luận là sinh viên VN được định hướng muộn hơn sinh viên NB. Ngoài ra, sinh viên NB nhìn chung có 2 năm để làm quen, được thày hướng dẫn và cho lời khuyên xem có nên học lên cao hay không, và sinh hoạt theo nhóm. Điều này giúp ích rất nhiều cho việc lựa chọn sự nghiệp của sinh viên. Ở Việt Nam, sinh viên chỉ có nửa kỳ cuối năm 4 để biết nếu theo con đường học lên cao thì nó sẽ như thế nào.

Về sách giáo khoa

Một điểm khác biệt rất lớn nữa là tại Nhật Bản, gần như không có khuôn khổ chung cho sách giáo khoa bậc đại học (và cao học). Cần phải nói rằng, một sinh viên có thể sẽ cần phải biết rất nhiều sách khác nhau.

Từng giáo viên sẽ lên bài giảng dựa theo sách mà họ thấy là cần thiết. Nhật Bản có rất nhiều kinh tế gia nổi tiếng, và một trong những việc họ làm là biên soạn sách giáo khoa – dựa theo kinh nghiệm giảng dạy của họ. Nếu các bạn tìm từ khoá マクロ経済学 thì có rất rất nhiều sách của các tác giả khác nhau. Có sách là dịch của nước ngoài, có sách là do các nhà nghiên cứu kinh tế biên soạn. Thị trường sẽ quyết định sách nào ưu việt, sách nào không, sách nào cần khi nghiên cứu vấn đề này, sách nào cần khi nghiên cứu vấn đề kia. Do đặc thù đó, mỗi người dạy có thể dùng sách chuyên khảo khác nhau, và một sinh viên đọc chương này ở sách này, chương này ở sách kia là chuyện hết sức bình thường. Mỗi năm, NB cho ra hàng trăm đầu sách khác nhau như vậy.

Tại Việt Nam, vì luật bản quyền chưa nghiêm, mình thấy các nhà nghiên cứu không có nhiều incentive để viết sách chuyên khảo, cũng như dịch sách chuyên khảo. Ngoài ra, sự hạn chế trong các công bố học thuật cũng làm giảm uy tín của người viết sách.

Để lại bình luận

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.